Gần đây, Khoa Da liễu Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị tiếp nhận ngày càng nhiều trường hợp bị sẩn ngứa do bọ chét, xảy ra ở cả trẻ nhỏ lẫn người lớn.
Phần lớn người bệnh không biết nguyên nhân gây bệnh. Song một số người đã quan sát được con bọ chét có kích thước rất nhỏ, màu đen hoặc hơi nâu đỏ, không có cánh, có khả năng nhảy rất nhanh ở trên da và môi trường xung quanh như sàn nhà, ga giường, thảm và ở vật nuôi. Thương tổn sẩn ngứa do bọ chét gây ra có thể điều trị khỏi, tuy nhiên nếu không nhận biết đúng nguyên nhân và xử lý triệt để nơi trú ẩn của bọ chét, bệnh có thể kéo dài dai dẳng và tái phát.
1. Bọ chét là gì?
Bọ chét là loài côn trùng nhỏ, không có cánh và sống bằng cách hút máu (thuộc bộ Siphonaptera), đặc trưng bởi khả năng nhảy xa. Nó chủ yếu hút máu động vật. Các loài bọ chét phổ biến, có tầm quan trọng nhất bao gồm bọ chét chuột, bọ chét người và bọ chét mèo. Vết cắn của chúng gây cảm giác đau rát, ngứa ngáy và làm mất máu. Bọ chét chuột là tác nhân chính truyền bệnh dịch hạch và sốt phát ban, trong khi bọ chét mèo có thể lây lan sán dây.
2. Phân loại bọ chét
Việc hiểu biết về các loài bọ chét là rất quan trọng, giúp chúng ta nắm được sự phân bố của chúng trên thế giới, mật độ, khả năng gây bệnh và truyền bệnh của chúng.
Bọ chét mèo: Ctenocephalides felis.
Bọ chét chó : Ctenocephalides canis.
Bọ chét người: Pulex irrtans.
Bọ chét chuột miền Bắc: Nosospsyllus fasciatus.
Bọ chét phương Đông: Xenopsylla cheopis.
3. Nhận dạng bọ chét
Bọ chét có kích thước 0,5 x 3.5mm. Bọ chét có màu đen hoặc hơi nâu đỏ (bọ chét chó hoặc mèo). Hai càng sau mập và dài, dùng để nhảy. Thân chúng dẹt ở hai bên, không có cánh, lưng có những gai hướng về phía sau làm hoạt động của chúng chỉ tiến về phía trước xuyên vào lông, tóc của vật chủ và giúp chúng không bị tuột ra ngoài.
Hình ảnh bọ chét
4. Vòng đời và môi trường sống của bọ chét
Bọ chét là loài ký sinh trùng biến thái hoàn toàn. Chu kỳ sống của bọ chét kéo dài khoảng 20 đến 35 ngày, tùy thuộc vào điều kiện nhiệt độ và độ ẩm. Chúng phát triển trong môi trường nóng ẩm, đặc biệt khi nhiệt độ dao động từ 21 đến 35°C và độ ẩm nằm trong khoảng 70–85%. Gặp điều kiện không thuận lợi, khi nhiệt độ đột ngột hạ thấp thì bọ chét ngừng phát triển và tồn tại kéo dài vài tháng đến một năm. Ở môi trường trong nhà bọ chét sinh sản quanh năm. Ngoài trời chỉ phát triển vào những tháng ấm. Ở miền Bắc nước ta thì bọ chét phát triển nhiều vào tháng 2 tháng 3 khi thời tiết chuyển từ mùa đông sang mùa xuân hè. Vòng đời của bọ chét bao gồm bốn giai đoạn: Giai đoạn trứng, giai đoạn ấu trùng, giai đoạn nhộng và giai đoạn trưởng thành.
Minh họa vòng đời của bọ chét
Vòng đời được bắt đầu từ bọ chét cái đẻ trứng. Điểm đặc biệt của bọ chét cái trưởng thành là khi có khả năng sinh sản chúng mới hút máu và chỉ đẻ trứng sau khi đã hút máu. Sau mỗi lần hút máu, mỗi bọ chét cái đẻ từ 2-20 trứng. Suốt cuộc đời một bọ chét cái đẻ khoảng trên 800 trứng. Trứng có thể dính trên da, lông của vật chủ hoặc rơi xuống đất. Vì vậy, thường những vùng đất mà vật chủ ngủ hoặc trú ngụ là môi trường sống đầu tiên của trứng để phát triển thành ấu trùng bọ chét. Khoảng 2-14 ngày, tùy theo điều kiện môi trường, trứng nở thành ấu trùng không có chân. Ấu trùng sống ở đất, phát triển bằng cách thay lông và lột xác 3 lần trong vòng 8 đến 24 ngày. Ấu trùng có thể kéo dài thời gian phát triển trên 6 tháng trong điều kiện không thuận lợi. Ấu trùng bọ chét sống ở các kẽ sàn nhà, ga trải giường, thảm và ở chỗ ngủ của động vật. Chúng không có chân nhưng chuyển động nhờ lông cứng trên cơ thể. Ấu trùng thích chỗ tối, ẩm ướt, ở đó chúng ăn những mảnh chất hữu cơ như phân của bọ chét trưởng thành, phân và những mảnh thức ăn thừa của vật chủ. Trước khi chuyển sang giai đoạn nhộng bất hoạt, ấu trùng bọ chét phát triển đầy đủ các bộ phận rồi tự nhả tơ quấn xung quanh mình để tạo thành kén. Kén được ngụy trang tốt vì rất dính và nhanh chóng được các hạt bụi, cát mịn bao quanh. Giai đoạn nhộng kéo dài từ 5- 7 ngày nhưng có thể tới một năm trong những điều kiện không thuận lợi. Bọ chét trưởng thành tồn tại ở trong kén cho đến khi gặp vật chủ thích hợp. Tùy theo điều kiện của môi trường, bọ chét trưởng thành có thể ở trong kén tới 5 tháng để chờ vật chủ. Trong kén, bọ chét trưởng thành nhận biết được sự có mặt của vật chủ thích hợp bằng cảm nhận hơi nóng, mùi của cơ thể vật chủ, luồng khí, dung động của sàn và môi trường xung quanh. Khi phát hiện được vật chủ thích hợp, bọ chét chui ngay ra khỏi kén và tìm đến vật chủ. Đặc điểm sinh thái này chính là lý do mà người ta thấy bọ chét trưởng thành xuất hiện nhiều khi người ta trở về nhà sau chuyến du lịch hoặc khi dọn đến nhà mới.
5. Gây bệnh và truyền bệnh
Cả bọ chét đực và cái đều hút máu. Bọ chét tránh ánh sáng và hầu hết đều thấy trong các đám lông tơ hoặc lông vũ của động vật hoặc ở giường ngủ, quần áo của con người. Hầu hết các loài bọ chét hút máu một hoặc hai loài vật chủ, nhưng khi vắng mặt vật chủ ưa thích nó đốt người hoặc các động vật khác. Bọ chét trưởng thành có thể nhịn đói, sống được vài tháng. Bọ chét di chuyển bằng cách nhảy, một số loài có thể nhảy cao đến 30 cm. Bọ chét đốt người, để hút máu gây bệnh sẩn ngứa. Ở Việt Nam thường gặp bọ chét chó và bọ chét mèo (Ctenocephalides felis, Ctenocephalides canis). Thương tổn là các sẩn huyết thanh, kích thước 1-2mm, gờ cao hơn mặt da, đỉnh chóp sẩn có mụn nước nhỏ, rất ngứa. Những trường hợp phản ứng mạnh có thể thấy hiện tượng viêm tấy đỏ lan toả xung quanh sẩn. Thương tổn thường gặp ở phần da hở hoặc ở những vùng da tiếp xúc trực tiếp với con vật khi người ta ôm, bế chúng như: Vùng cổ, mặt, tay, chân, vùng quanh thắt lưng. Ngoài ra, bọ chét có thể là vật chủ trung gian truyền một số bệnh. Bọ chét phương Đông (Xenopsylla cheopis) truyền một số bệnh dịch, bệnh sốt kéo dài từ chuột sang người. Bọ chét mèo và chó truyền bệnh sán dây từ vật chủ này sang vật chủ khác…
Triệu chứng lâm sàng khi bị bọ chét cắn
6.Điều trị
Khống chế được sự phát triển của bọ chét là hết sức phức tạp. Bởi vì vòng đời của bọ chét có nhiều giai đoạn phát triển ngoài vật chủ. – Trước hết phải cắt nguồn lây. Vật nuôi trong nhà là nguồn lây đầu tiên và là nguồn dự trữ mầm bệnh. Vì vậy, phải xác định con vật nào có bọ chét (chó, mèo…) để loại bỏ hoặc điều trị cho chúng, đồng thời phải vệ sinh nơi ở của chúng bằng cách phun hoặc xịt thuốc trừ sâu, thuốc diệt côn trùng để tiêu diệt trứng, ấu trùng, nhộng và bọ chét trưởng thành. – Điều trị sẩn ngứa ở người do bọ chét đốt. + Chủ yếu điều trị tại chỗ: Bôi kem kháng histamin hoặc kem corticoid hoặc DEP, nếu có viêm tấy, bội nhiễm dùng thuốc sát khuẩn hoặc kem kháng sinh. + Trường hợp ngứa nhiều có thể kết hợp dùng kháng histamin toàn thân. + Chú ý vệ sinh quần, áo, chăn chiếu và nơi ở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Văn Châu, Đỗ Sĩ Hiển, Nguyễn Thu Vân (2007). Động vật chí Việt Nam. Tập 16, Họ Mò Đỏ (Trombiculidae - Acarina) và Bộ Bọ chét (Siphonaptera). NXB KH&KT. 306 trang.
Nguyễn Văn Châu và cs (2011). Thành phần loài động vật chân đốt y học và độ nhạy cảm với hóa chất diệt côn trùng của véc tơ sốt xuất huyết tại đảo Phú Quốc – Kiên Giang. Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học. NXB Y học.
Nguyễn Văn Châu và cs (2011). Thực hành kỹ thuật chân đốt y học. Viện SR – KST-CT TƯ. NXB Y học. 462 trang.
Nguyễn Văn Châu. (2017), “Các loài động vật chân đốt ký sinh đã phát hiện ở Việt Nam”. Hội nghị côn trùng toàn quốc, lần thứ 9, Tr. 770 - 782.
Trần Thanh Dương và cộng sự, 2015. Kỹ năng nhận biết và phòng chống côn trùng gây bệnh, gây hại. Viện Sốt rét - KST - CT Trung ương.
Lê Thành Đồng và cs, 2015. Nghiên cứu thành phần loài và phân bố một số nhóm ngoại ký sinh tại một số điểm ở khu vực Nam Bộ - Lâm Đồng. Tạp chí y học dự phòng. Tập XXV, số 8 (168) 2015, số đặc biệt.
Trần Xuân Mai và cs, 2013. Ký sinh trùng y học. NXB Y học.
Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), 2014. Cẩm nang phòng chống bệnh truyền nhiễm
Gregory H. Adler, Nina I. Suntsova, Victor V. Suntsov, and Scott A. Mangan, 2001. Fleas (Siphonaptera) Collected from Small Mammals in Southern Viet Nam in 1997–1998. Journal of Medical Entomology, 38(2):210-213.
S. G. Medvedev, 1996. Geographical Distribution of Families of Fleas (Siphonaptera). Entomological review. Vol 76. No. 8. 1996. Pp. 978 – 992.