1. Sử dụng thuốc cho phụ nữ mới xuất hiện trầm cảm hoặc phụ nữ bị tái phát trầm cảm
Nếu tình trạng sức khỏe tâm thần của người mẹ cho phép, việc cân nhắc bắt đầu sử dụng thuốc chống trầm cảm cho đến sau tam cá nguyệt đầu tiên là cần thiết, vì điều này giảm thiểu nguy cơ sảy thai và quái thai tiềm tàng liên quan đến việc sử dụng thuốc chống trầm cảm.
Mục tiêu của điều trị trong thai kỳ là đạt được sự thuyên giảm và việc sử dụng liều dưới mức điều trị của thuốc chống trầm cảm không được chứng minh là làm giảm nguy cơ cho trẻ sơ sinh mà còn tăng nguy cơ chăm sóc kém cho bản thân của người mẹ.
Nhiều nghiên cứu về sự an toàn của thuốc chống trầm cảm trong thai kỳ được tìm thấy ở thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs) và SSRIs. Thuốc chống trầm cảm ba vòng hiếm khi được sử dụng để điều trị trầm cảm vì tác dụng phụ phức tạp và nguy cơ gây tử vong khi quá liều. SSRIs được sử dụng phổ biến hơn nhiều trong điều trị trầm cảm.
Một số chuyên gia khuyến nghị Sertraline là tác nhân hàng đầu trong thai kỳ, nhưng nó không hoàn toàn không có rủi ro. Một số báo cáo nói rằng nó làm tăng nguy cơ mắc các dị tật vách ngăn tim (OR, 2.0; CI 95%, 1.2–4) nhưng nguy cơ tuyệt đối nhỏ. Lưu ý rằng ngay cả khi nguy cơ tăng lên gấp bốn lần, nguy cơ có một đứa trẻ bị ảnh hưởng chỉ là 0.2%. Việc sử dụng Sertraline trong thai kỳ có một số lợi thế. Thứ nhất, nó có nồng độ huyết thanh ở mẹ thấp hơn so với các SSRIs khác. Thứ hai, nồng độ huyết thanh của sertraline ở trẻ bú mẹ hầu như không phát hiện được.
Paroxetine không được khuyến nghị sử dụng trong thai kỳ vì có liên quan đến nguy cơ cao hơn của các dị tật bẩm sinh trong một số nghiên cứu.
2. Phụ nữ đang sử dụng thuốc chống trầm cảm
Những người đã sử dụng paroxetine trong giai đoạn đầu của thai kỳ nên được đề nghị siêu âm tim thai, vì nguy cơ dị tật tim có thể tăng khi sử dụng thuốc này trong thai kỳ sớm.
Việc ngừng hoặc thay đổi thuốc có nguy cơ tái phát cao. Nếu một phụ nữ chọn ngừng dùng thuốc, nên giảm liều từ từ để giảm thiểu nguy cơ tái phát. Sau đó cần theo dõi cẩn thận và đều đặn.
Nói chung, không thay đổi thuốc nếu tình trạng trầm cảm được kiểm soát tốt, vì nguy cơ tác dụng phụ trong thai kỳ được cho là thấp với hầu hết các thuốc chống trầm cảm thường được sử dụng.Ngoài ra, việc thay đổi thuốc có thể dẫn đến tái phát.
3. Những lưu ý sau sinh
Vì sự sụt giảm nhanh chóng của nhiều hormone ngay sau sinh, điều trị trầm cảm sau sinh bằng liệu pháp bổ sung estrogen có tác dụng khá tốt trong việc hỗ trợ điều trị trầm cảm.
4. Cho con bú
Yếu tố cần xem xét cụ thể duy nhất trong giai đoạn sau sinh là nếu người phụ nữ đang cho con bú. SSRIs hoặc TCAs được coi là tương thích với việc cho con bú; rất ít dữ liệu có sẵn về sự an toàn của các thuốc chống trầm cảm khác trong thời kỳ cho con bú.
Trong số các SSRIs, fluoxetine và citalopram được một số tác giả cho rằng không phải là lựa chọn hàng đầu vì báo cáo về các tác dụng phụ ở trẻ sơ sinh khi sử dụng chúng.
Sertraline và paroxetine phù hợp hơn, vì chúng đã được tìm thấy có mức độ huyết thanh thấp hơn và được coi là chấp nhận được để sử dụng trong thời kỳ cho con bú.
5. Sự an toàn của thuốc chống trầm cảm trong thai kỳ
Các chuyên gia khuyến nghị sử dụng các thuốc chống trầm cảm mới hơn, đặc biệt là SSRIs, trong thai kỳ và khi cho con bú làm tác nhân hàng đầu vì có nhiều dữ liệu về sự an toàn của chúng hơn so với các nhóm thuốc chống trầm cảm khác.
Việc trì hoãn sử dụng thuốc cho đến sau khi sinh có thể không có lợi cho cả mẹ và thai nhi, vì trầm cảm không được điều trị trong thai kỳ có thể gây ra rủi ro cho cả mẹ và trẻ. Bao gồm việc chăm sóc bản thân kém, sinh non, thay đổi hóa sinh thần kinh bất thường ở con cái và kết quả sức khỏe hành vi và tâm thần kém hơn ở trẻ em.
Phụ nữ sử dụng SSRIs trong thai kỳ có nguy cơ sinh trước 37 tuần cao hơn so với nhóm đối chứng khỏe mạnh. Tỷ lệ sinh non được báo cáo là 8.8% ở phụ nữ dùng SSRIs, 5.0% ở phụ nữ có tiền sử tâm thần, và 4.9% ở phụ nữ khỏe mạnh.
6. Sảy thai
Việc sử dụng thuốc chống trầm cảm trong tam cá nguyệt đầu tiên đã được báo cáo là có liên quan đến nguy cơ sảy thai cao hơn so với các bà mẹ bình thường. Tuy nhiên, ở một số nghiên cứucho rằng mối liên hệ giữa trầm cảm không được điều trị và nguy cơ sảy thai tự phát cao hơn.
7. Dị tật bẩm sinh
Trong số các SSRIs, việc sử dụng paroxetine nguy cơ dị tật tim cao hơn.
8. Tác động đến trẻ sơ sinh
Việc sử dụng SSRIs cũng đã được liên kết với các biến chứng khác ở trẻ sơ sinh, bao gồm tăng huyết áp phổi, sinh non và khả năng thích nghi kém của trẻ sau khi sinh. Tăng huyết áp phổi kéo dài là một biến chứng hiếm gặp nhưng có thể gây tử vong. Ước tính xảy ra ở dưới 1% các ca sinh.
Trẻ sơ sinh tiếp xúc với SSRIs trong giai đoạn cuối thai kỳ đã được báo cáo là gặp phải sự run rẩy, khó chịu, khó ăn và suy hô hấp sau khi sinh. Những trường hợp này cần theo dõi sau sinh với chăm sóc đặc biệt.
9. Tác động dài hạn
Trong một bài tổng quan tài liệu rộng rãi được công bố vào năm 2007, Way kết luận rằng phần lớn tài liệu ủng hộ kết luận rằng việc tiếp xúc với SSRIs trong thai kỳ không ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của trẻ em trong tương lai. Các nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt đáng kể về trí tuệ, phát triển ngôn ngữ, tính khí, tâm trạng, khả năng tập trung hoặc các vấn đề hành vi ở trẻ em mà mẹ đã sử dụng thuốc chống trầm cảm trong thai kỳ. Chỉ có một nghiên cứu phát hiện ra những thay đổi tinh tế trong khả năng điều khiển vận động tinh và sự chậm trễ nhẹ trong sự phát triển vận động tâm lý ở trẻ em tiếp xúc với SSRIs trong tử cung, nhưng các tác động lâm sàng của phát hiện này chưa được biết rõ.
10. Kết luận
Điều trị thích hợp trầm cảm là rất quan trọng đối với sức khỏe ngắn hạn và dài hạn của cả phụ nữ và con cái họ.
Trầm cảm không được điều trị ở mẹ trong thai kỳ đã được phát hiện có liên quan đến tỷ lệ cao hơn của sảy thai tự phát, sinh non, khả năng phản ứng kém của mẹ đối với các tín hiệu của trẻ sơ sinh, cố gắng tự tử và trầm cảm sau sinh. Nó cũng liên quan đến tỷ lệ rối loạn tâm thần cao hơn đáng kể ở trẻ em cho đến khi 18 tuổi, những trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị trầm cảm.
Nguồn tham khảo: Barbara Hackley, CNM, MSN, Midwifery Womens Health. 2010;55(2):90-100